ĐH lần thứ IV của Đảng
(12/1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại: “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc
tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục va
phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phòng,
xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Trong quan hệ với các nước, ĐH IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến, đấu và
quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào- Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trong khu vực ; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả
các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Từ giữa năm 1978,
Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như : chú trọng củng
cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với
Liên Xô, coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt- Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia
đang diễn ra phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
ĐH lần thứ V của Đảng
xác định: công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực
trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu
toan chống phá cách mạng.
Về quan hệ với các nước,
Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và
luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định
quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào –
Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các
nước ASEAN hãy cùng các nước Đông
Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình và ổn định;
chủ trương khôi phục quan hệ bình thường
với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương
thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Thực hiện cho thấy, ưu
tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975-1986 là xây dựng
quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xhcn; củng cố và tăng cường
đoàn kết hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các không liên kết và các nước đang phát
triển; đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của thế lực thù địch.
Kết luận:
Bên cạnh những kết quả tích cực, thì từ năm 1975-1986, quan
hệ quốc tế của Việt Nam gặp những khó khăn, trở ngại lớn.Nước ta bị bao vây, cô
lập, trong đó đặc biệt là từ cuối thập niên 70 của thế kỉ XX, lấy cớ “Sự kiện Campuchia” các nước ASEAN và một số
nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam.
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn là do trong quan hệ đối
ngoại giai đoạn này, chúng ta chưa nắm bắt
được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua kinh tế trên thế giới. Do đó, đã
không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế để phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát
triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mới mới quan hệ đối ngoại cho
phù hợp với tình hình.
ð
Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn
1975-1986 suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản đã được ĐH lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “ bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét